Thận trọng khoản vay ưu đãi lãi suất qua ngân hàng

Trong báo cáo gửi Quốc hội, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã kiến nghị Chính phủ cần cân nhắc đề xuất cung cấp các khoản vay ưu đãi lãi suất thông qua ngân hàng thương mại (NHTM) khi thực tế triển khai chính sách hỗ trợ từ năm 2009 đã bộc lộ nhiều hạn chế…
Cho vay chính sách, kinh nghiệm 2009
Trao đổi với Báo Ðầu tư Chứng khoán, lãnh đạo cao cấp một NHTM cổ phần nhận định: “Kiến nghị của NHNN có lẽ bắt nguồn từ những lo ngại về nợ xấu sẽ phát sinh sau đại dịch Covid-19, bên cạnh đó là đề xuất cho 19 tập đoàn, tổng công ty tiếp cận gói tín dụng 285.000 tỷ đồng hỗ trợ do ảnh hưởng bởi dịch với lãi suất 0% trong thời hạn ít nhất 3 năm của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (CMSC)”.
Liên quan tới đề xuất hỗ trợ, CMSC cho rằng, trong năm 2020, nếu dịch bệnh kéo dài, giá dầu không phục hồi, doanh thu của các tập đoàn, tổng công ty sẽ giảm khoảng 279.767 tỷ đồng so với kế hoạch. Ngoài ra, sẽ có 8/19 tập đoàn, cổng công ty bị thua lỗ, tổng số lỗ khoảng 26.326 tỷ đồng; nộp ngân sách nhà nước giảm khoảng 32.836 tỷ đồng so với kế hoạch…
Song, vấn đề ở đây là các NHTM cũng là doanh nghiệp và quan trọng hơn, đó là tình trạng nhiều doanh nhà nước có hiệu quả sử dụng vốn thấp, tỷ lệ nợ phải trả so với vốn chủ sở hữu ở mức báo động, nếu tiếp tục cho vay ưu đãi thì dễ dẫn đến nguy cơ mất khả năng trả nợ, khiến nợ xấu tăng cao, qua đó chồng thêm khó khăn cho các ngân hàng…
Nhìn lại từ năm 2009, với mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội, các giải pháp kích thích kinh tế, gói kích cầu đã được thực hiện ở Việt Nam như gói kích thích kinh tế khoảng 145.600 tỷ đồng (hơn 8 tỷ USD theo tỷ giá giai đoạn này), gói tín dụng hơn 400.000 tỷ đồng với lãi suất 4%/năm (kéo dài từ tháng 2-12/2009)...
Ðiểm đáng chú ý tại Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) Hội nghị giữa kỳ Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam vào tháng 6/2009 cho thấy, từ tháng 4/2009, chương trình hỗ trợ lãi suất mở rộng đối tượng vay từ vốn lưu động sang vốn đầu tư và thời hạn dài hơn, từ 9 tháng tăng lên 2 năm, trong khi tín dụng ngân hàng lúc đó vẫn luân chuyển tốt, nên có nhiều băn khoăn về tính hợp lý của chương trình hỗ trợ lãi suất giai đoạn 2 này.
Ðặc biệt, việc hỗ trợ lãi suất có nhiều điểm giống như chức năng “cho vay chính sách” vốn đã bị các NHTM hủy bỏ và chuyển sang những ngân hàng chuyên biệt trước đó vài năm như một phần trong nỗ lực cải cách ngành tài chính ngân hàng.
“Cho vay chính sách rất dễ bị thiên vị, có thể khiến việc phân bổ nguồn lực trở nên thiếu hiệu quả, gây ảnh hưởng đến chất lượng danh mục đầu tư của ngân hàng”, WB nhận định.
Cũng theo WB, ngay tại thời điểm đó đã có một số dấu hiệu cho thấy tỷ lệ nợ xấu tăng lên sau vài năm khi các ngân hàng quốc doanh có nhiều nỗ lực làm sạch danh mục đầu tư của mình để chuẩn bị cho cổ phần hóa và nhìn chung đã cải thiện được chất lượng cho vay.
Nợ xấu có thể cao hơn 3,67% vào cuối năm 2020
Số liệu NHNN cho biết, tỷ lệ nợ xấu nội bảng đến cuối tháng 3/2020 là 1,77%, tăng so với con số cuối năm 2019 là 1,63%. Con số này có thể cao hơn trong quý II khi dịch bệnh vẫn đang diễn biến phức tạp trên thế giới.
Cũng theo NHNN, ước có khoảng 2 triệu tỷ đồng dư nợ tín dụng có thể bị ảnh hưởng bởi Covid-19, chiếm khoảng 23% dư nợ toàn hệ thống, trong đó nhiều nhất là kinh doanh khoáng sản, nhiên liệu, nguyên vật liệu xây dựng, kinh doanh ô tô và phụ tùng với dư nợ tín dụng bị ảnh hưởng khoảng 548.000 tỷ đồng, chiếm 6,6% tổng dư nợ; tiếp đó là công nghiệp chế biến, chế tạo với 520.000 tỷ đồng, chiếm 6,3%; hoạt động dịch vụ khác (sửa chữa các thiết bị, đồ dùng gia dụng, dịch vụ phục vụ tăng cường sức khoẻ, giặt là, cắt tóc, hiếu hỉ...) là 260.000 tỷ đồng, chiếm 3,1%; nông - lâm nghiệp và thuỷ sản là 157.000 tỷ đồng, chiếm 1,9%, tập trung chủ yếu vào các ngành hàng rau quả, thuỷ sản, cao su, cà phê, chè, hạt tiêu.
Với hoạt động kinh doanh bất động sản, dư nợ tín dụng bị ảnh hưởng khoảng 145.000 tỷ đồng, chiếm 1,75% tổng dư nợ; các dự án BOT, BT giao thông khoảng 110.000 tỷ đồng (chiếm 1,35%); khai khoáng dư nợ bị ảnh hưởng khoảng 45.000 tỷ đồng (chiếm 0,5%), tập trung chủ yếu vào dư nợ đối với khai thác than, dầu thô, quặng kim loại. Con số này tại lĩnh vực dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch là 169.000 tỷ đồng; vận tải là 139.000 tỷ đồng...
Ý kiến của bạn